Đó là những trò chơi truyền thống gắn liền với tuổi thơ của mỗi con người, mỗi vùng đất. Hẳn cậu bé Nguyễn Khoa Điềm cũng đã từng gắn chặt tuổi thơ mình cùng những trò chơi nên cái sức mạnh văn hoá truyền thống ấy đã là hành trang không thể thiếu của đời người. Đó là trò thả diều, một trò chơi dân gian nổi tiếng của xứ Huế mà cho đến bây giờ “diều Huế” trở thành một thứ “đặc sản” văn hoá rất riêng: “Biết ơn những cánh sẻ nâu đã bay đến cánh đồng/Rút những cọng rơm vàng về kết tổ/Đã dạy ta với cánh diều tuổi nhỏ/Biết kéo về cả một sắc trời xanh”.
Đó còn là chuyền nẻ kết hợp nhuần nhuyễn giữa động tác và lời đồng dao đi cùng động tác:“Biết ơn trò chơi tuổi nhỏ mê ly/ “Chuyền chuyền một…” miệng, tay buông bắt/ Ngôn ngữ lung linh quả chuyền thoăn thoắt/Nên một đời tiếng Việt mãi ngân nga” (Mặt đường khát vọng).
Từ một trò chơi tưởng chừng con trẻ vô bổ ấy, khi đã trở thành giá trị văn hoá truyền thống thì nó chứa một sức mạnh vô song: một tình yêu tiếng nói dân tộc đến nặng lòng. Và trò chơi “đánh trận giả” thuở ấu thơ lại cũng hiện về làm nền tảng sức mạnh trên bước đường ta ra trận thật - trận đọ sức mất còn cùng siêu cường quốc Mỹ: “Lối đường làng ta chọc chú ve xưa/ Nay là lối em ta đào hầm đặt bẫy/ Những trận giả trẻ con ta từng chơi, buổi ấy” (Gửi anh Tường).
3.2 Văn học dân gian
Văn học dân gian vốn là một biểu hiện cụ thể của văn hóa dân gian. Đó là nền văn chương truyền miệng tự xa xưa còn lưu mãi đến ngày nay mà không cần chữ viết. Văn học dân gian Việt Nam cũng đa dạng, phong phú không kém bất kỳ một nền văn học dân gian lâu đời nào trên thế giới. Đó là những thần thoại, truyền thuyết, những ca dao, tục ngữ: “Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao, thần thoại/Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”/Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội/Biết trồng tre đợi ngày thành gậy/ Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
Và: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” (Mặt đường khát vọng) để rồi vận vào tục ngữ, ca dao hình thành nên tính cách của con người Việt Nam hiện đại: “O phó bí thư mười bảy tuổi/ “ăn chưa no, lo chưa tới” mẹ ơi” (Người con gái chằm nón bài thơ). Đó còn là Đất nước của hàng ngàn pho chuyện cổ tích có tự thời “ngày xửa ngày xưa”: “Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể” (Mặt đường khát vọng) và:“Em ta nay là máu, lửa căm thù/Không kịp nghe Thạch Sanh và tròn tiếng mẹ ru” (Gửi anh Tường) Hay: “Em nghe không trái thị đã rơi xuống tay Người…/Khi trái thị chạm tay Người và Người ấp ủ/Thị lừng hương và cô Tấm bước ra/Đi trả thù và sống Tự do”(Mặt đường khát vọng).
Trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước được phô bày với tất cả vẻ đẹp lung linh của truyền thống văn hóa vừa gần gũi, cụ thể lại vừa thiêng liêng, huyền ảo.
4 Văn hoá phong tục, tập quán:
Phong tục, tập quán cũng là một thành tố quan trọng trong văn hóa tổ chức đời sống cá nhân của người Việt. Đó là những phong tục, tập quán được truyền nối từ thế hệ này sang thế hệ khác. Theo nguời Việt, khi một sinh linh được sự tác hợp Âm Dương của Cha và Mẹ vừa mới hình thành như một hạt máu, bản thân nó đã có sự sống riêng trong lòng người mẹ. Người mẹ lúc này không chỉ sống cho riêng mình mà sống cả vì sự sống của thai nhi trong bụng. Vì thế, cái phong tục tính “tuổi mụ” trở thành một phong tục thiêng liêng trong quan niệm tín ngưỡng về mười hai bà mụ: “Biết ơn mẹ vẫn tính cho con thêm một tuổi sinh thành/ “Tuổi của mụ” con nằm trong bụng mẹ/Để con quý yêu tháng ngày tuổi trẻ/ Buổi mở mắt chào đời, phút nhắm mắt ra đi”.
Đó là tập quán “miếng trầu là đầu câu chuyện” có từ thuở các vua Hùng dựng nước bằng câu chuyện “Trầu cau” ăm ắp nghĩa tình vừa mang yếu tố truyền thuyết lại vừa đậm yếu tố đời thường của cổ tích: “Đất nước bắt đầu với miếng trầu bà ăn”. Đó là tập quán thể hiện quan niệm “cái răng cái tóc là góc con người” của người Việt cổ xưa: “Tóc mẹ thì bới sau đầu” (Mặt đường khát vọng). Đó còn là tín ngưỡng sùng bái con người thể hiện qua một thứ “tôn giáo” đặc sắc Việt Nam: Đạo thờ cúng tổ tiên. Người Việt Nam quan niệm, khi chết đi chỉ có phần vật chất (thể xác) là tiêu tan còn tinh thần (linh hồn) thì tồn tại vĩnh viễn và thường xuyên đi về trần gian thăm nom, phù trì con cháu. Vì thế, bái vọng tổ tiên là điều không thể thiếu thể hiện sự tôn trọng đầy thiêng liêng của người sống đối với người đã khuất: “Con lại về thăm ảnh cha xưa/Người chiến sĩ đánh Tây/Mười lăm năm, mới có mặt trên bàn thờ/ Bạn con đến thắp nén nhang thơm ngát/Mắt cha vui phấp phới bóng trăm cờ” (Đất ngoại ô).Hồn thiêng cha ông vẫn cùng đi về cùng cháu con trong đời thực: “Nơi ta và tổ tiên/ Vẫn đi về trước cửa/Nơi mùa màng vất vả/Vẫn thơm lừng mái phên” (Cái nền căm hờn).
Cái sâu bền của thơ Nguyễn Khoa Điềm chính là ở đó. Vừa linh thiêng, quyến rũ vừa căng đầy sức mạnh của hiện thực cuộc đời.
5. Truyền thống lịch sử dân tộc:
Lịch sử và văn hóa là hai phạm trù vừa độc lập lại vừa rất thống nhất. Tất cả mọi giá trị văn hóa vật chất và tinh thần đều phải có bề dài lịch sử. Và từng thời kỳ, giai đoạn lịch sử dân tộc chỉ có ý nghĩa khi gắn liền với những giá trị văn hóa từ quá khứ đến thời kỳ lịch sử ấy. Truyền thống lịch sử dân tộc trong thơ Nguyễn Khoa Điềm được thể hiện ở nhiều góc độ khác nhau.
5.1 Là một dân tộc mà lịch sử hình thành gắn liền với công cuộc mở cõi về phương Nam
Lịch sử Việt Nam đã trải qua không ít những giai đoạn bị cắt chia đất nước bởi nhiều lý do, song lịch sử một giai đoạn thường bị chi phối bởi thế lực chính trị của giai đoạn lịch sử ấy mà thôi, còn văn hóa sử thì lại tồn tại vượt thời gian, vì thế nó trở thành sợi dây nối thiêng liêng, dù vô hình, làm nên sự thống nhất của dân tộc: “Chúng ta là người miền Nam/ Nhưng tôi biết anh gốc gác họ Hoàng Kinh Bắc/ Còn tôi họ Nguyễn tỉnh Đông/ Huyết thống ta trôi trên bán đảo âm thầm/Hôm nay bỗng réo sôi từng hồi từng trận” (Mặt đường khát vọng).
Chính vì lẽ đó mà người Việt dù vô cùng gắn bó với quê cha đất tổ, nhưng khi vì lợi quyền mở mang và thống nhất giang san, họ sẵn sàng vui vẻ rời quê làm kẻ lưu đày, lao ra chiến trận: “Cầm giáo, cầm khiên và cất tiếng hát lưu đày” (Mặt đường khát vọng). Lưu đày mà cầm giáo, cầm khiên; lưu đày mà ra đi trong vang ca tiếng hát thì quả là một cuộc lưu đày đầy thi vị và lạc quan. Đây cũng chính là nét văn hóa truyền thống quý báu của người dân Việt.
5.2. Là truyền thống đánh giặc giữ nước
Đây là truyền thống nổi bật làm nên phẩm giá Việt Nam: “Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre và đánh giặc”. Lịch sử dân tộc gắn liền với lịch sử đánh giặc giữ nước và vì thế: “Hãy nhìn rất xa/Vào bốn ngàn năm Đất nước/Năm tháng nào cũng người người lớp lớp/ Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta/ Cần cù làm lụng/Khi có giặc người con trai ra trận/ Người con gái trở về nuôi cái cùng con/Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh/ Có nhiều người đã trở thành anh hùng”, trong đó có không ít những người mẹ anh hùng trực tiếp tham gia đánh giặc: “Mẹ của con ơi hẳn mẹ sẽ yêu hơn/ Thịt da mẹ vuông tròn là thế đó/Chúng con xin đón mẹ vào đội ngũ/ Hiếu thảo gia đình, chung thuỷ nước non”. Đó là truyền thống của thần tích Phù Đổng Thiên Vương và cuộc chiến thắng quân Nguyên Mông của quân dân thời Trần ngày trước: “Đất nước muôn năm/Nhưng ngựa đá lại xuống đường/Những bà mẹ đo chân vào thần tích/Để hoài thai triệu triệu những anh hùng” Và: “Trong lặng im ai đó trả lời:/ Người Mỹ đừng quên đây là xứ sở/Của những Yết Kiêu bất tử!” (Mặt đường khát vọng).
Rồi cùng tiếp nối với ngọn cờ lau tập trận của Đinh Bộ Lĩnh thống nhất giang sơn: “Kỷ niệm tuổi thơ phơ phất bóng lau qua/Lớp trẻ đi những triền đồi bãi sóng/ Trên vai bạn cờ lau tập trận/ Lịch sử ngàn năm là ước mơ nay/Xe đi trong rừng lau gió bay” (Lau).
Đánh thức truyền thống cha ông để kéo tuổi trẻ lầm lạc của miền Nam trở về nguồn cội:“-Sao các anh đến Hoa Lư/Không đem theo mỗi người một cành lau/Để làm cờ và tập trận/Như Đinh Bộ Lĩnh ngày xưa từng nuôi chí lớn”.
Thế hệ này nối tiếp thế hệ kia, máu hòa trong máu làm nên sợi chỉ đỏ vô hình xuyên suốt chiều dài lịch sử: “Máu thấm sâu xuống mỗi mặt đường/Trần Hưng Đạo, Phan Bội Châu, Lê Lợi/ Trên trăm lối những anh hùng để lại/Máu cháu con hoà với máu cha ông” (Mặt đường khát vọng).
Đó còn là truyền thống gần của những ngày đầu đánh Pháp bằng “chiến thuật trái mù u” thô sơ nhưng không kém thông minh khiến kẻ thù bao phen khiếp vía:“Ôi trái mù u động dưới chân Người/Còn muốn theo người ra cản giặc” (Nơi Bác từng qua), “Cho tôi làm một trái mù u/ Lăn theo chân các anh, các chị” (Con chim thời gian).
Chính truyền thống đã lưu truyền vào xương thịt một cách tự nhiên làm nên sức mạnh: “Cho xương con có dáng trăm cọc bêu đầu/ Cho mắt con có màu gươm của mắt nghìn người bị chém/Cho tay con có mười chiếc đinh của nghìn tay bị đóng” (Mặt đường khát vọng).
5.3. Là quan niệm mang tính truyền thống dân chủ: Đất nước của nhân dân
Chính nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã tự mình thú nhận khi được hỏi về quan niệm Đất Nước trong trường ca “Mặt đường khát vọng”, ông bảo: “ Ý tưởng xuyên suốt của tôi trong chương này là thể hiện một Đất nước của nhân dân, do đó, từ ngữ, hình ảnh, chất liệu thơ được sử dụng đều nhằm làm rõ ý tưởng này” [6, tr. 274]. Tác giả đã khái quát về nhân dân, đó là những người:
“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm/ Có nội thù thì vùng lên đánh bại/Để Đất Nước này là Đất nước của Nhân dân”.
Chính Nhân dân đã sáng tạo lịch sử và sáng tạo văn học, vì thế, đã là “Đất Nước của Nhân dân” thì nhất định phải là “Đất Nước của ca dao, thần thoại”. Nhân Dân trong thơ Nguyễn Khoa Điềm vừa khái quát lại vừa cụ thể. Nhưng dẫu có thế nào họ vẫn là nhân vật trung tâm làm nên Đất Nước:“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu/Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái/ Gót ngựa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại/ Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất Tổ Hùng Vương/ Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm/ Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiêng/ Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh/Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm/Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi/Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha/Ôi Đất Nước bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy/Những cuộc đời đã hoá núi sông ta” (Mặt đường khát vọng).
Và có lẽ, tập trung nhất, tiêu biểu nhất cho sự nối kết truyền thống văn hoá - lịch sử để làm nên sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, chính là danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh. Vì sao? Vì: "Có Người, chúng tôi có lại Hùng Vương/Có lại dáng búp sen nghìn năm của chùa Một Cột/Và những búp sen miền Nam tận bùn lầy Đồng Tháp/ Có Người cũng đã thành thơ/ Có Người, mũi tên đồng Cổ Loa/Không chịu vùi dưới đất/Không nằm yên trong viện bảo tàng/ Chúng bay lên xé gió thời gian/Mở hết đường bay qua thăng trầm lịch sử/Để cắm vào đầu giặc Mỹ”.
Người gọi dậy cả những giá trị văn hóa tưởng chừng như đã mất: “Có Người, pho Bồ Tát nghìn tay nghìn mắt/Biết toả hào quang từ hàng chục cánh tay/ Có Người, pho Bồ Tát triều Lý chỉ còn đầu/Vẫn nguyên vẹn trong lòng chúng tôi nhờ búi tóc thời vua Hùng để lại/Và pho Kim Cương trên đôi chân vững chãi/ Dẫu mất đầu vẫn giữ /một dáng đứng Việt Nam/ Đấy, Đất Nước chúng tôi đổ vỡ biết bao lần/(cả những pho từ bi cũng không ngoài hoạn nạn/ nhưng có Người, cái mất đi phải trả về hình dáng)/ Quá khứ được nhìn từ đôi mắt hôm nay/ Và Hôm Nay từ đôi mắt Ngày Mai/ Chúng tôi sống bằng Tương lai một nửa” ((Mặt đường khát vọng).
Quá khứ - Hôm nay - Ngày mai nối tiếp nhau, toàn dân theo con đường Người đã chọn làm nên giá trị trường tồn bền vững của truyền thống văn hóa nước nhà.
6. Văn hoá Trị Thiên - Huế:
Sinh ra và trưởng thành trên vùng đất giàu giá trị văn hóa, thơ Nguyễn Khoa Điềm thấm đẫm hồn Huế, chính vì thấm nhuần nền văn hóa dân gian nơi chôn nhau cắt rốn nên khi khái quát về Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm nghĩ ngay đến những câu ca dao bình dân của xứ sở: “Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”/Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi” (Mặt đường khát vọng). Đau thương tủi hờn những ngày Huế còn rên xiết dưới bàn chân giặc, câu dân ca trữ tình cũng đứt đoạn nỗi niềm đau: “Trước bến Văn Lâu/ Đau biết mấy lần mẹ hát khúc ca dao”.
Đó còn là những vần “thơ mụ Đội”, câu chuyện của “cụ Trâu trên khu phố buồn đau”, rồi: “Đêm đêm khơi từng ngọn lửa/Kể tôi nghe chuyện mụ lý, ông cò…” (Đất ngoại ô).
Đó còn là những trò chơi dân gian gắn liền với vùng đất Huế, long lanh sắc màu giữa chợ Gia Lạc: “Con gà đất bảy màu/ Sống bằng hơi con trẻ/Hùng dũng gọi mùa xuân/ Mặt trời vàng long lanh trên chợ Gia Lạc” (Con gà đất, cây kèn và khẩu súng); là dòng Hương thơ mộng, bao đời trở thành chứng nhân lịch sử của vùng đất kinh thành, là dòng sông tri âm của nhiều danh nhân tên tuổi: “Biết ơn dòng sông dựng dáng kiếm uy nghi/Trong tâm trí một nhà thơ khởi nghĩa/Cao Bá Quát ngã mình trên chiến địa/Trăm năm rồi sông vẫn sáng màu gươm” (Mặt đường khát vọng).
Và gần hơn là lời Hịch phò vua những ngày cần Vương đánh Pháp: “Qua hoàng thành cha ông gọi tên tôi ù ù trong họng súng thần công/Hịch Cần vương tưởng còn vang qua chín cửa/Sắc đẹp nghìn xưa thấm từng trang lịch sử” (Đất ngoại ô).
Đó còn là vùng đất của những ngày cậu bé Nguyễn Sinh Cung theo cha vào Huế học: “Lớp học nào Người đã đến ngồi đây/Những mùa thu im lìm lá đổ/ Như vùi sâu cả bầu trời xứ sở/Xuống lòng sông nức nở khúc nam ai” (Nơi Bác từng qua).
Đó còn là những con phố Huế thân quen gắn với tuổi tên những anh hùng, danh nhân dân tộc. Không đơn giản là những tên đường, tuổi tên họ đã làm sống dậy truyền thống hào hùng trong những ngày Huế sục sôi xuống đường tranh đấu:“Trần Hưng Đạo gối lên Phan Bội Châu/ Phan Bội Châu nối tay Huỳnh Thúc Kháng/Qua cầu là Chi Lăng, Nguyễn Du/Vào đại nội có Mai Thúc Loan, Đoàn Thị Điểm/…Nhà thơ cầm tay anh hùng” (Mặt đường khát vọng).
Văn hóa Huế một phần gắn chặt với sông nước Hương giang vì thế những vạn chài ven sông trở thành một thứ văn hóa đầy ám ảnh: “những người dân nghèo về đây/ như vỏ hến chiều chiều tấp lên các bến” (Đất ngoại ô).
Nhà Nguyễn Khoa Điềm ở vùng Vĩ Dạ, mỗi bận qua lại bến Đập Đá là mỗi một lần chứng kiến đời sống vạn chài lênh đênh sông nước: “Ôi những cuộc đời sụt lở dần theo con nước mỗi năm lùa vô Đập Đá”. Và từ cái chuyện văn hóa bến sông, bãi cồn ấy, tác giả liên tưởng ngay về mẹ, về lời mẹ dạy con xuất phát từ sự cần thiết của nước ngọt trên những bãi ngô ven thôn Vĩ Dạ:“Nước mặn lên lúa héo ở bên cồn/ Mẹ vẫn dặn “đổi nước ngọt” chứ đừng “bán nước” (Đất ngoại ô).
7. Truyền thống văn hóa - lịch sử thế giới:
Với vốn tri thức uyên bác của một người ham đọc và đọc nhiều, Nguyễn Khoa Điềm nắm bắt được rất nhiều những tư tưởng triết học, những giá trị văn minh nhân loại. Chính vì thế, trường liên tưởng của thơ ông thường được tiếp sức bởi những tri thức văn hóa - lịch sử nhiều lớp, nhiều tầng: “Những tội ác con người đã đi qua bỗng hồi sinh trở lại/ Như những tầng diệp thạch vỡ làm đôi/ Và những con bò sát khổng lồ ùa ra múa vuốt, liếm môi/ Rồi những Khan Tác-ta bỗng bước ra từ bão cát/Rùng rùng đi tàn phá nước non này”.
Khi tố cáo tội ác tinh vi của Đế quốc Mỹ, tác giả đã mở rộng không gian liên tưởng từ những giá trị văn hóa qua cái nhìn đối lập xưa - nay: “Những bạo chúa tự hào lối đánh bánh xe quay?/ Giờ đã có trực thăng treo người vào không khí”Và: “Chuồng cọp của lãnh chúa xưa đáng gọi hôi tanh/ Nay miệng những thằng ác ôn đã tanh ngòm gan với máu/ Xưa “Luật cọ vế” là vinh hoa sáng tạo/ Nay thú tính, dâm ô thành lý thuyết tôn thờ” (Mặt đường khát vọng).
Không chỉ văn hóa truyền thống của dân tộc mới ẩn chứa sức mạnh và niềm tin, tất cả tinh hoa văn hóa nhân loại đều là gia sản chung của nhân loại tiến bộ. Hơn ai hết, người Việt Nam yêu chuộng hòa bình, công lý, tự do; hiểu rất rõ giá trị tinh thần của những nền văn hóa thế giới, lấy nó làm sức mạnh, dồn vào làm nên cuồng phong đánh tan giặc Mỹ. Chính “cái kiểu văn minh Mỹ” chứ không ai khác đã hủy diệt những giá trị văn hóa được toàn nhân loại tôn thờ: “Chúng đánh cho ta khắc nghiệt trước cái hôn Ju-li-et – Rô-mê-ô/ Không bén mảng những cánh rừng của Ang-đéc-xen, những bãi biển Ta-go nhìn bầy con trẻ” (Mặt đường khát vọng).
Không những đánh mất giá trị văn hóa chung của nhân loại, Đế quốc Mỹ còn đánh mất văn hóa của chính cha ông mình để lại: “Mà đến Việt Nam. Và đánh mất ở đây tất cả những giá trị cao quý con người/ Đánh mất Lin-côn, Giép-phóc-xơn, Hê-ming-uê… trong những bãi B.52” (Mặt đường khát vọng).
Trên bình diện văn hóa học, dân tộc Việt Nam luôn sống theo lối quân bình Âm Dương, chính vì thế người Việt rất linh hoạt và cũng rất lạc quan, người phương Tây thường gọi chúng ta là một dân tộc sống “vì tương lai”. Chính vì thế, từ những ngày giữa rừng núi âm u, trong bối cảnh bom gầm đạn rú, giữa cuộc chiến tranh một mất một còn, con người bỗng thấy tự tin hơn, yêu đời hơn khi trải lòng mình vào âm nhạc: “Anh nhớ đêm nào nghe nhạc Bet Tô Ven/Mưa thấm qua hầm dĩ nhờn trên mặt/Bom toạ độ vung xoè năm ngón sắt/Muốn bới tung chỗ kiêu hãnh ta nằm/Trong chương cuối cùng bản giao hưởng số năm/Đó là lúc trái đất vừa toả nắng/ Ta reo lên cho nhạc sĩ nghe cùng:/- Thiên tài ơi, trận đánh, Anh cũng tấn công” (Gửi anh Tường).
Cũng bởi chính điều này mà biểu tượng văn hóa Châu Mỹ La tinh Chê - ghê - va - ra luôn được lớp lớp thế hệ người Việt Nam tôn kính. Trong biểu tượng tự do, bất khuất của Chê có cái gì đó rất Việt Nam. Nếu nói như Chê là: “Nhân loại cần nhiều Việt nam cho nhân loại” thì chúng ta cũng cảm nhận rất rõ rằng: Việt Nam cũng cần rất nhiều những giá trị, những tinh hoa văn hóa của nhân loại để làm nên sức mạnh Việt Nam: “Tôi hình dung Chê đứng trước cuộc đời/Mười họng súng kẻ thù giương tận ngực/Tỳ tay lên cái chết làm diễn đàn/- “Hãy nhớ lấy lời tôi!” - Chê kêu gọi/ “Nhân loại cần nhiều Việt Nam cho nhân loại” (Hình dung về Chê Ghêvara).
Đến đây thì ai cũng có thể nhận ra rằng: sức mạnh của văn hóa truyền thống là vô cùng quan trọng đối với lịch sử một dân tộc. Và cũng chính những giá trị văn hóa đó khi được cảm nhận sâu sắc và đưa vào thơ sẽ tạo nên những khoảng âm vang rất lớn để thơ ca trường tồn và song hành cùng lịch sử. Không còn nghi ngờ gì nữa, chính chiều sâu của những giá trị văn hóa đã tạo nên nét phong cách riêng làm nên gương mặt thơ Nguyễn Khoa Điềm .
Mai Bá Ấn
__________________
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1- Nguyễn Khoa Điềm - Đất ngoại ô, Nxb Văn nghệ Giải phóng, 1972
2- Nguyễn Khoa Điềm - “Mặt đường khát vọng”, Tuyển tập Trường ca, Nxb Quân đội, Hà Nội, 1997
3- Nguyễn Khoa Điềm - Đất và khát vọng, Nxb Văn học Hà Nội, 1984
4- Nguyễn Khoa Điềm - Ngôi nhà có ngọn lửa ấm, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội, 1986
5- Nguyễn Khoa Điềm - “Đôi nét về cuộc đời và tác phẩm”, Nhà văn nói về tác phẩm, Nxb Văn học, Hà Nội, 1998
6- Nguyễn Khoa Điềm - “Đất nước” (trả lời phỏng vấn), Tác giả nói về tác phẩm, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh, 2000
7- Nguyễn Trọng Hoàn, Ngô Thị Bích Hương - Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1999
8- Trần Ngọc Thêm - Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1996.
9- Nguyễn Quang Thiều chủ biên - Tác giả nói về tác phẩm, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh, 2000
Nguồn: phongdiep.net
Nhận xét
Đăng nhận xét